Trước đó, Bộ Tài chính đã nhận được văn bản kiến nghị về chính sách thuế GTGT đối với dịch vụ vận tải biển giữa các cảng nước ngoài của một số DN vận tải biển.
DN kiến nghị
Theo các DN, trước ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế toàn cầu cũng như của VN nên việc khai thác tàu rất khó khăn. Vì vậy, các DN gặp nhiều khó khăn khi tìm kiếm trên thị trường quốc tế để khai thác hàng chạy giữa các cảng nước ngoài. Các DN cho rằng, vận tải biển giữa các cảng nước ngoài là vận tải quốc tế vì vận tải biển giữa các cảng nước ngoài không có chặng nội địa nên không thể là vận tải nội địa. Các hợp đồng vận tải giữa các cảng của nước ngoài được ký với các tổ chức, cá nhân nước ngoài, không ký với tổ chức, cá nhân VN và thu được nguồn ngoại tệ cho đất nước.
Các DN cũng khẳng định, không như lĩnh vực thương mại và dịch vụ khác có thể tạm ngừng hoạt động kinh doanh, Công ty vận tải biển phải đầu tư vốn rất lớn để mua, thuê phương tiện mà phần lớn vốn đi vay ngân hàng, chịu rủi ro cao. Việc không được khấu trừ thuế GTGT đầu vào càng tạo thêm khó khăn cho các DN vận tải biển. Các DN vận tải kiến nghị cho phép các DN vận tải biển được khấu trừ số thuế GTGT của hàng hoá, dịch vụ mua vào sử dụng cho hoạt động vận tải giữa các cảng nước ngoài từ ngày 1/1/2011 đến trước ngày 1/3/2012.
Hướng xử lý của Bộ Tài chính
Trước kiến nghị của các DN, Bộ Tài chính đã căn cứ các Quy định về vận tải quốc tế: Tại điểm d khoản 1 Điều 6 Nghị định số 123/2008/NĐ-CP của Chính phủ có quy định về vận tải quốc tế được áp dụng thuế suất 0% như sau: “ Vận tải quốc tế quy định tại khoản này bao gồm vận tải hành khách, vận chuyển hàng hoá theo chặng quốc tế từ VN ra nước ngoài hoặc từ nước ngoài đến VN. Trường hợp, hợp đồng vận tải quốc tế bao gồm cả chặng vận tải nội địa thì vận tải quốc tế gồm cả chặng nội địa”. Căn cứ quy định trên thì hoạt động vận tải biển giữa các cảng nước ngoài chưa được quy định thuộc hoạt động vận tải quốc tế được áp dụng thuế suất 0%.
Về phạm vi điều chỉnh, tại Điều 3 Luật thuế GTGT có quy định về đối tượng chịu thuế “Hàng hóa, dịch vụ sử dụng cho sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng ở VN là đối tượng chịu thuế giá trị gia tăng, trừ hàng hoá, dịch vụ không chịu thuế quy định tại Điều 5 của luật”. Vì vậy, hoạt động vận tải biển giữa các cảng nước ngoài không thuộc phạm vi chịu thuế GTGT tuy không được quy định nằm trong nhóm đối tượng không chịu thuế tại Điều 5.
Về dịch vụ xuất khẩu được áp dụng thuế suất 0%, tại điểm b khoản 1 Điều 6 Nghị định số 123/2008/NĐ-CP về dịch vụ xuất khẩu áp dụng thuế suất 0% quy định: “Đối với dịch vụ xuất khẩu bao gồm dịch vụ cung ứng trực tiếp cho tổ chức, cá nhân ở nước ngoài hoặc ở trong khu phi thuế quan. Tổ chức ở nước ngoài là tổ chức không có cơ sở thường trú tại VN, không phải là người nộp thuế GTGT tại VN. Cá nhân ở nước ngoài là người nước ngoài không cư trú tại VN, người VN định cư ở nước ngoài và ở ngoài VN trong thời gian diễn ra việc cung ứng dịch vụ. Tổ chức, cá nhân trong khu phi thuế quan là tổ chức, cá nhân có đăng ký kinh doanh và các trường hợp khác theo quy định của Thủ tướng Chính phủ”. Vì thế, nếu hoạt động vận tải từ cảng nước ngoài đến cảng nước ngoài thoả mãn hai điều kiện là: có hợp đồng với tổ chức, cá nhân nước ngoài và có chứng từ thanh toán qua ngân hàng được áp dụng thuế suất thuế GTGT 0%.
Từ các căn cứ pháp lý như trên, Bộ Tài chính trình Thủ tướng Chính phủ cho phép các Công ty vận tải biển được khấu trừ số thuế GTGT của hàng hoá, dịch vụ mua vào sử dụng cho hoạt động vận tải(van chuyen hang hoa) giữa các cảng nước ngoài từ ngày 1/1/2011 đến trước ngày 1/3/2012.
Theo Hoàng Oanh
0 nhận xét:
Đăng nhận xét